HỘI CHỨNG GOODPASTURE
Hội chứng Goodpasture (được biết đến với tên khác là bệnh Goodpasture hoặc bệnh kháng thể – kháng màng đáy cầu thận)là 1 bệnh hiếm gặp, đặc trưng bởi viêm cầu thận và xuất huyết phổi. Mặc dù nhiều bệnh cũng có thể xuất hiện các triệu chứng trên, hội chứng Goodpasture thường dùng cho bệnh tự miễn gây ra khi hệ miễn dịch của bệnh nhân tấn công kháng nguyên Goodpasture (một phản ứng quá mẫn type 2), được tìm thấy trong thận và phổi, và theo thời gian, gây tổn hại cho các cơ quan này. Bệnh mang tên nhà nghiên cứu bệnh học người Mỹ, Tiến sĩ Ernest Goodpasture của Đại học Vanderbilt , có 1.919 mô tả được coi là báo cáo đầu tiên về sự tồn tại của tình trạng này.
Các kháng nguyên GBM chịu trách nhiệm về căn bệnh này là một thành phần của vùng không collagenous (NC1) của chuỗi alpha-3 của collagen loại IV.
DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG:
Hội chứng Goodpasture có thể gây ra: ho ra máu hoặc cảm thấy một cảm giác nóng rát khi đi tiểu. Tuy nhiên, dấu hiệu đầu tiên của nó có thể mơ hồ, chẳng hạn như mệt mỏi, buồn nôn, khó thở, da xanh xao. Theo sau những dấu hiệu này là các triệu chứng của thận, đầu tiên bởi một lượng nhỏ máu trong nước tiểu, protein trong nước tiểu, và kết quả lâm sàng và xét nghiệm khác.
Các bệnh nhân khác có thể có cả bệnh phổi và bệnh thận, tuy nhiên, 1 số bệnh nhân chỉ có một trong các bệnh này. Các triệu chứng phổi đầu tiên thường phát triển từ ngày này qua tháng khác trước khi tổn thương thận là đã xuất hiện.
1-Bệnh phổi
Triệu chứng phổi có thể xuất hiện như không có gì nghiêm trọng hơn so với ho khan và khó thở nhẹ, và các triệu chứng nhẹ có thể kéo dài trong nhiều năm trước khi triệu chứng nghiêm trọng hơn phát triển. Tuy nhiên, sự hủy hoại phổi có thể gây ra suy giảm nghiêm trọng lượng oxy, vì vậy chăm sóc đặc biệt (intensive care) cần được yêu cầu. Bệnh nhân thường không đi khám cho đến khi bắt đầu ho ra máu ( hemoptysis ). Bệnh nhân có thể thiếu máu do mất máu qua xuất huyết phổi trong thời gian dài. Trong hội chứng Goodpasture, không giống như nhiều bệnh khác gây ra triệu chứng tương tự, xuất huyết phổi thường xảy ra ở người hút thuốc và những người bị suy kiệt từ phổi nhiễm trùng hoặc tiếp xúc với khói.
2-Bệnh thận
Bệnh về thận chủ yếu ảnh hưởng đến tiểu cầu thận, gây ra 1 dạng của viêm thận . Nó thường không được phát hiện cho đến khi 1 sự phát triển nhanh chóng của bệnh này xảy ra và chức năng thận có thể hoàn toàn biến mất trong một vài ngày, một dạng bệnh được gọi là viêm cầu thận phát triển nhanh chóng, hoặc RPGN . Máu tràn vào nước tiểu gây tiểu huyết (hematuria) , khối lượng nước tiểu đầu ra giảm, urê và các sản phẩm khác thường bài tiết bởi thận sẽ được giữ lại và tăng lên trong máu. Điều này làm suy thận cấp. Suy thận không gây ra triệu chứng cho đến khi hơn 80% chức năng thận đã bị mất. Các triệu chứng bao gồm: đầu tiên, mất cảm giác ngon miệng và khó chịu, và sau đó, khi sự tàn phá nặng hơn, sẽ gây khó thở, cao huyết áp và phù (sưng do giữ nước). Triệu chứng thận liên quan thường biểu hiện là hội chứng viêm thận (nephritic syndrome), ví dụ tiểu máu, giảm tỷ lệ lọc cầu thận , và huyết áp cao. Điều này trái ngược với hội chứng thận hư (nephrotic syndrome), 1 kết quả hiếm hơn của Goodpasture, đặc trưng bởi số lượng lớn bất thường protein trong nước tiểu ( protein niệu ), cùng với phù nề nặng.
CHẨN ĐOÁN
Do các triệu chứng sớm còn mơ hồ và tiến triển nhanh chóng của bệnh, chẩn đoán thường không đạt được cho đến khi đến giai đoạn rất muộn của bệnh. Sinh thiết thận thường là cách nhanh nhất để bảo đảm các thông tin chẩn đoán và thu thập thông tin mức độ của bệnh và có khả năng ảnh hưởng nhiều đến việc điều trị. Các thử nghiệm kháng thể chống GBM cũng có thể hữu ích, kết hợp với các xét nghiệm kháng thể đối với kháng nguyên tế bào chất bạch cầu trung tính, cũng chống lại protein của bệnh nhân.
NGUYÊN NHÂN KHẢ THI
Nhiễm virus, đặc biệt là cúm , và phẫu thuật thận thường được coi là nguyên nhân đã được chứng minh.
Các nguyên nhân khác có thể gồm sự hiện diện của 1 thành phần di truyền và tiếp xúc với hóa chất nhất định, gồm các dung môi hydrocarbon và thuốc diệt cỏ Paraquat.
SINH LÝ BỆNH
Như nhiều bệnh tự miễn, nguyên nhân gây ra chính xác Hội chứng Goodpasture chưa được biết đến. Nó được cho là 1 phản ứng quá mẫn type II với kháng nguyên Goodpasture trên màng đáy cầu thận và phế nang, đặc biệt là vùng không collagen của chuỗi alpha-3 của collagen loại IV . Hệ miễn dịch nhận ra sự sai lệch những yếu tố như kháng thể sản xuất và ngoại lai (IgG) về phía chúng, gợi ra một phản ứng miễn dịch. Trên 1 vết nhuộm miễn dịch của Hội chứng Goodpasture, thường hiện diện một mô hình nhuộm tuyến tính.
Suy thận là do sự kháng màng đáy cầu thận (anti-GBM).
ĐIỀU TRỊ
Giống như nhiều bệnh tự miễn, hội chứng Goodpasture cũng đáp ứng tốt với điều trị bằng corticosteroids và chất ức chế miễn dịch . Những thuốc này làm giảm đáp ứng miễn dịch bình thường của cơ thể và bệnh nhân có thể dễ bị nhiễm trùng. Nồng độ kháng thể kháng GBM trong máu có thể được giảm nhờ kỹ thuật phân tích máu (apheresis) để loại bỏ huyết tương và thay thế một phần huyết tương với muối đẳng trương và protein hòa tan. Phương pháp điều trị này thường kéo dài 3-6 tháng.
Thật không may, không có những phương pháp điều trị có thể phục hồi tổn thương thận vĩnh viễn và, với bệnh nhân đã bị hội chứng, ghép thận có thể cần thiết 1 khi căn bệnh đã giảm xuống.
DỊCH TỄ HỌC
Bệnh Goodpasture rất hiếm. Trong dân số châu Âu, tỷ lệ mắc bệnh là giữa 1: 1.000.000 và 1: 2.000.000. Ít có khả năng tìm thấy bệnh trong các quần thể ngoài châu Âu. Các trường hợp đã xảy ra ở bệnh nhân giữa các độ tuổi từ 4- 80, phổ biến nhất lứa tuổi từ 18 và 30 và lặp lại giữa 50 và 65. Không giống như nhiều bệnh tự miễn khác, đáng ngạc nhiên, những người đàn bị ảnh hưởng hơn so với phụ nữ, khoảng 6 lần.
TIÊN LƯỢNG
Trong những năm 1970, hội chứng Goodpasture thường xuyên gây tử vong nhất, nhưng do tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, tử vong ít phổ biến hiện nay. Tử vong do xuất huyết phổi có thể xảy ra trước khi chẩn đoán được thực hiện, hoặc trong giai đoạn đầu điều trị trước khi nó đã được kiểm soát đúng cách. Tuy nhiên, theo điều trị, bệnh nhân có thể phục hồi hoàn toàn từ tổn thương phổi. Mặt khác, thận ít có khả năng tự sửa chữa và bệnh nhân tổn thương thận thường phải sống 1 cuộc sống chạy thận hoặc ghép thận. Ngay cả với việc quản lý tốt nhất vẫn còn tỷ lệ tử vong đáng kể do suy thận, đặc biệt nếu bệnh nhân có sức khỏe kém. Ngoài ra, nhiều BN được điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch làm tăng nguy cơ nhiễm 1 số bệnh nghiêm trọng hoặc gây tử vong thứ cấp.
0 comments